Viêm động mạch thái dương
Viêm động mạch thái dương được biết đến như bệnh viêm tế bào cực lớn của động mạch – đó là bệnh viêm động mạch có đường kính trung bình, giữ chức năng cung cấp máu cho đầu, mắt và thần kinh thị giác. Ta hãy tì hơi mạnh ngón tay lên thái dương sẽ cảm nhận được mạch đập ở đó. Đó chính là mạch đập của động mạch thái dương. Bệnh thường xuất hiện ở người ngoài 60 tuổi và biểu hiện rõ ở các mạch máu của thái dương và ở phần đầu mọc tóc có hiện tượng phù và nhiễm bệnh. Số lượng chị em phụ nữ mắc bệnh này nhiêu gấp 4 lần nam giới.
Mối nguy hiểm chính đối với động mạch thái dương là sự mất khả năng nhìn của mắt ( mất thị lực), tuy nhiên, trong quá trình tiến triển lâu dài của bệnh, nó vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng xấu cho cả những động mạch khác nữa. Đây là loại bệnh có nguy cơ gây nguy hiểm đối với thị giác, song nếu ta triển khai điều trị một cách kịp thời và đúng phương pháp thì có thể loại trừ được căn bệnh trên. Mối nguy hiểm là ở chỗ máu được cung cấp để nuôi dưỡng mắt và thần kinh thị giác phải đi qua các động mạch bị viêm nhiễm nên nếu ta không điều trị dứt điểm căn bệnh này thì các tế bào thần kinh võng mạc cũng như thần kinh thị giác sẽ bị tê liệt.
CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH:
Đau đầu
Cảm giác xuất hiện bệnh ở các vùng có tóc trên đầu hi tiếp xúc với vật khác ( thí dụ như khi chải đầu)
Đau nhức ở thái dương ( có cảm tưởng không chịu đựng được)
Thị lực ngày càng trở nên xấu hơn
Ăn không thấy ngon miệng
Có hiện tượng sốt
Cảm thấy bực dọc trong người
Người ở trạng thái trầm uất
Có hiện tượng sụp mi trên
Hình ảnh nhìn thấy được phóng to gấp đôi
Đau cổ
Khi nhai thấy đau ở bên thái dương
CHẨN ĐOÁN BỆNH
Khi có sự nghi vấn về bệnh viêm động mạch thái dương bác sĩ chuyên khoa sẽ chỉ định phân tích máu để xác định tốc độ lắng của hồng cầu và xác định chỉ số C – trong phản ứng Protit- người ta đo thời gian cần thiết để hồng cầu ( các tiểu thể máu màu hồng) lắng đọng ở đáy của ống nghiệm gọi là tốc độ lắng đọng hồng cầu. Chiều cao lắng đọng hồng cầu ở trạng thái tĩnh của ống nghiệm trong khoảng 1 giờ đồng hồ sẽ cho kết quả tính bằng milimet. Mức độ lắng đọng hồng cầu cao báo hiệu cơ thể bệnh nhân bị viêm nhiễm nặng. Chỉ số phản ứng protit C là chỉ số được tổng hợp trong gan người – loại protit này được giải phóng khỏi máu khi cơ thể có phản ứng đối với chấn thương và các bệnh viêm nhiễm khác.
Khi bị bệnh viêm động mách thái dương người ta thường tiến hành làm sinh thiết, thủ tục làm sinh thiết được tiến hành bằng gây tê tại chỗ. Qua vết rạch nhỏ ở động mạch thái dương người ta lấy ra một chút tế bào bị viêm nhiễm để nghiên cứu trên kính hiển vi. Việc nghiên cứu trên kính hiển vi sẽ khẳng định chẩn đoán của bác sĩ đạt độ chính xác tuyệt đối 100%.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BỆNH
Các bác sĩ nhãn khoa thường kết hợp với các bác sĩ nội khoa để điều trị căn bệnh này. Cơ sở để điều trị bệnh viêm động mạch thái dương – đó là việc bác sĩ chỉ định cho bệnh nhân dùng hooc môn chứa Steroit ở dạng viên nén để khống chế quá trình viêm nhiễm động mạch. Đa số bệnh nhân nhận thấy tình trạng bệnh có thuyên giảm sau một vài ngày điều trị. Trong một số trường hợp đòi hỏi bệnh nhân phải duy trì một cách thường xuyên liều Steroit đang dùng một thời gian dài tiếp theo.
Trả lời