hakhothao1

Cây hoa môi (hạ khô thảo) – TCY071

400.000 VNĐ

Tên khoa học:

Spica Prunellae
Nguồn gốc:

Cụm quả đã phơi hay sấy khô của cây Hạ khô thảo (Prunella vulgaris L.), họ Bạc hà (Lamiaceae).
Cây mọc ở những vùng núi cao của nước ta.
Dược liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc.
Thành phần hoá học chính:

Các alcaloid, saponin.
Công dụng:

Chữa sưng vú, lao hạch, bướu cổ, đau mắt, viêm tử cung, viêm gan, ngứa, hắc lào, vẩy nến.
Cách dùng, liều lượng:

Ngày dùng 8-16g dạng thuốc sắc.
Ghi chú:

Hạ khô thảo nam là cành mang lá, hoa của cây Cải trời (Blumea subcapitata DC.), họ Cúc (Asteraceae).



Mô tả sản phẩm

Tên khoa học Brunella (Prunella0 vulgaris L.

Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae.

Ta dùng cụm hoa và quả phơi hay sây skhoo (Flos Brunellae cum Fructu) của cây hạ khô thảo.

Theo người xưa cây này sau ngày hạ chí (mùa hạ) thì khô héo nên gọi là hạ khô thảo (trên thực tế ở nước ta, mùa hạ cây vẫn tươi tôt).
hakhothao1
A. Mô tả cây

Hạ khô thảo là một cây sống dai có thân vuông màu hơi tím đỏ, lá mọc đối, hình trứng hay hình mác dài, mép nguyên hoặc hơi có răng cưa, có ít lông ở thân và lá. Cụm hoa mọc ở đầu cành giống như bông do nhiều hoa có cuống ngắn mọc vòng, mỗi vòng có 5-6 hoa. Đài hoa có hai môi, môi trên có ba răng, môi dưới có hai răng, hình ba cạnh. Cánh hoa màu tím nhạt hình môi, môi trên như cái mũi, môi dưới sẻ ba, thuỳ giữa rộng hơn, nhị 2 dài, 2 ngắn, đều thò ra khỏi tràng. Vòi nhỏ dài. Quả nhỏ cứng.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây này hiện nay mới phát hiện được ở Sapa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Hà Giang vào các tháng 4, 5, 6 rất nhiều, sang đến tháng 8 một số đã lụi đi. Đã được khai thác, Trước đây phải nhập của Trung Quốc.

Hiện nay nhiều nới như tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh nói cũng có hạ khô thảo nhứng chưa được xác minh.

Vào mùa hạ, khi một số quả đã chín thì hái cành mang hoa và quả sấy khô hay phơi khô. Có người dùng cả bộ phận trên mặt đất (tháo) hái về phơi hay sấy khô để dùng.

C.Thành phần hoá học

Hiện nay vẫn còn ít tài liệu nghiên cứu về cây này. Mới chỉ biết rằng cành mang hoa và qur chín chừng 3.5% muối vô cơ tan trong nước. Trong số muối vô cơ này 68% là kali clorua, ngoài ra còn thấy một chất có tính chất ancaloit.

Hoạt chất khác chưa rõ, gần đây có tác giả lấy được từ cây Brunella vulgaris L. var. lilacina Nakai hái vào tháng 6 khi ra hoa, chừng 0.56% chất ãit ursolic C30H48O3′.

D. Tác dụng dược lý

1. Cửu Bảo, Điền Tĩnh Quang và Đảo Thanh Cát (1940, Hoà hán dược dụng thực vật) đã thí nghiệm lấy các muối vô cơ trong nước sắc hạ khô thảo, chế thành thuốc tiêm, tiêm tĩnh mạch thỏ, lập tức thấy huyết áp hạ xuống, vận động hô hấp tăng lên, tác dụng lợi tiểu rõ rệt như các muỗi kali khác. Do đó suy ra rằng sở dĩ hạ khô thảo có tác dụng là do lượng muối kali khá cao.

2. Theo báo Y học Liên Xô, 1951 (kỳ 6 năm thứ bảy) và Y dược học (quyển số 4 kỳ 6 1951) các chất tan trong nước có hạ khô thảo có tác dụng hạ huyết áp lâu dài trên bệnh nhân và làm hết các triệu chứng khó chịu của bệnh cao huyết áp.

3. Có nơi nhâ dân Trung Quốc dùng nấu nước uống thay nước trà.

4. Tài liệu cổ nói vị hạ khô thảo có tác dụng chữa loa lịch (lở loét, tràng nhạc, mụn nhọt, dò ở trên đầu) rất có công hiệu.

5. Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (thê kỷ 16) có kể một trường hợp ông dùng chữa bệnh nhức mắt rất công hiệu như sau: “Có một người con trai đau ở trong con ngươi, nhức cả ở trong quãng xương đầu lông mày và đau thêm nửa đầu, dùng hoàng liên nhỏ vào lại càng thêm đau, uống các thứ thuốc khác cũng đều không công hiệu, liền dùng ngải cứu ở các huyệt quyết âm, thiếu dương tức thời khỏi đau, cứ nhùng nhằng như thế tới hơn một tháng, liền dùng hạ khô thảo 2 lạng (80g), hương phụ (củ gấu) 2 lạng (80g), cam thảo 4 đồng cân (16g). Các vị cùng tán bột, mỗi lần uống 1 đồng rưỡi (6g) hoà với nước chè, uống khỏi miệng, đau nhức bớt ngay. Tiếp đó chỉ uống 4-5 lần nữa bệnh khỏi hẳn.”

Cùng trong tài liệu đó, Lý Thời Trân có kể một tác giả khác là Lê Sĩ Cư trong bộ sách Giản dị phương nói hạ khô thảo hàn đắng và lạnh (như hoàng liên) mà nhỏ vào lại càng đau thêm, nhưng dùng hạ khô thảo rất hay.

E. Công dụng và liều dùng

Tính vị theo đông y: Vị đắng, cay, tính hàn, không độc, vào hai kinh can và đởm. Có tác dụng thanh can hoả, tán uất kết, tiêu ứ sáng mắt, làm thuốc chữa loa dịch, giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ.

Những bài thuốc dùng hạ khô thảo trong nhân dân

1.Chữa tràng nhạc mã đao:  Hạ khô thảo 5 lạng (200g) đun lấy nước đặc uống, uống trước khi ăn cơm 2 giờ (Bài thuốc trích trong sách “Tiếp thị ngoại khoa – Bản thảo cương mục”).

Cũng bệnh trên có thể dùng hạ khô thảo, hương phụ, bối mẫu, viễn chí đun lấy nước đặc uống rất hay, không nên coi thường (sách kinh nghiệm phương – bản thảo cương mục)

2. Chữa xích bạch đới:  Hạ khô thảo tán nhỏ, mỗi lần uống 8g với nước cơm (sách Từ Thị Phương).

3. Chữa tràng nhác: (loa lịch) hạ khô thảo 8g, cam thảo 2g, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml chia ba lần uống trong ngày.

4. Thông tiểu tiện:  Hạ khô thảo 8g, hương phụ tử 2g, cam thảo 1g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia làm 3 lần uống trong ngày.

5. Bị đánh hay bị thương: Dùng hạ khô thảo tươi tán nhỏ đắp vào vết thương.

Có thể dùng chữa bệnh cao huyết áp với liều 5-15g dưới dạng thuốc sắc.

Chú thích:

Hiện nay một số người buôn thuốc nam ở ta và thuốc bắc có thu mua và bán một cị mang tên là hạ khô thảo hay hạ khô nam, hoặc hạ khô thảo Nghệ An hoặc cây cải trời, cải ma.

Cây này được xác định là Blumea subcapitata DC thuộc họ Cúc Asteraceac (Compositae) vậy hoàn toàn không giống cây hạ khô thảo ở Sapa và trước đây ta vẫn nhập của Trung Quốc. Hiện nay Cải trôi đã được xác định tên là Blumeca balsamifera).

Theo Cayla (Journ. Agric. Trop. 9, 1909, 253) cây cải dầu có tinh dầu màu vàng, mùi nồng vì chứa camphora nhiều hơn ở cây đại bi (Blumeca balsamifera).

Theo Baslas K. K. và Deshapande S. S. tinh dầu cải trời có 66% cinelo, 10% d-fenchon và 6% cotral.

Tuy nhiên, trong thực tế chữa bệnh lâu đời của nhiều ông lang, vị thuốc này cũng chữa có kết quả nhiều trường hợp bệnh ngoài ra.

Chúng tôi thấy vẫn tiếp tục nên dùng với tên là cải trời hay là cải ma để tránh nhầm lẫn. Đồng thời nên chú ý nghiên cứu, triển vọng có thể thêm một số vị thuốc quý nữa. Cải trời là một loại cỏ cao 30-59cm, mọc thẳng. Lá phía dưới đơn hoặc hơi xẻ, mép co răng cưa, dài 7cm, rộng 3-4cm, có nhiều lông nhất là mặt dưới. Hoa hình đầu

The Gioi Cay Thuoc

Đánh giá

Chưa có đánh giá nào.

Hãy là người đầu tiên đánh giá “Cây hoa môi (hạ khô thảo) – TCY071”

Hotline 24H Mua Hang Online